Kỷ niệm 77 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2024)

Ngày đăng: 23 tháng 7 2024
Lượt xem: 948
Kỷ niệm 77 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2024)

Tháng 7 về, nhớ tình cảm của Bác Hồ với thương binh, liệt sỹ

“Việt Nam đất nước ta ơi!

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn

Cánh cò bay lả rập rờn

Mây mù che đỉnh Trường Sơn sớm chiều

Quê hương biết mấy thân yêu

Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau

…Đất nghèo nuôi những anh hùng

Từ trong máu lửa lại vùng đứng lên!”

Trích bài thơ “Việt Nam quê hương ta”

Tác giả: Nguyễn Đình Thi

Có lẽ hiếm nơi nào như Việt Nam – đất nước đã trải qua và chịu nhiều hậu quả của những cuộc chiến tranh để lại. Từ phố phường chật hẹp đến những làng quê trên dải đất hình chữ S đều có những nghĩa trang liệt sỹ. Họ - những liệt sỹ ngã xuống khi mới mười tám đôi mươi. Họ đã nguyện hi sinh tính mạng của mình để giành độc lập, tự do cho dân tộc. Bởi vậy, đất nước Việt Nam được định hình trên bản đồ thế giới cũng từ tinh thần hy sinh cao cả ấy. Hàng năm, mỗi dịp kỷ niệm ngày Thương binh – Liệt sỹ (27/7), chúng ta lại nhớ về những người lính đã quên mình hy sinh vì nước, vì dân, đồng thời cũng nhớ đến những tình cảm đặc biệt, tình thương yêu vô hạn mà Bác Hồ đã dành cho thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ.

Suốt 24 năm kể từ ngày nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời (tháng 9/1945) đến tháng 5-1969, có khoảng 25 lần Bác Hồ gửi thư thăm hỏi anh chị em thương binh, gia đình liệt sỹ. Trong nhiều bài nói, bài viết và các bức thư của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định và ghi nhận sự hy sinh cao cả của các thương binh, anh hùng liệt sỹ. Người nói: “Máu đào của các liệt sỹ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do”

Ngày 19/12/1946, sau Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chiến tranh lan rộng ra nhiều vùng. Số người bị thương và tử nạn tăng lên rất nhanh do sự chênh lệch về trang bị vũ khí cũng như những chiến thuật chiến đấu. Đời sống của binh lính lúc đó, nhất là những binh sỹ bị thương, gia đình liệt sỹ gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Thông báo “về việc nhận con các liệt sỹ làm con nuôi”. Thông báo có đoạn viết: “Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sỹ đó và tôi nhận con các liệt sỹ làm con nuôi của tôi”. Người đã yêu cầu các làng, chính quyền địa phương lập danh sách, xem xét, nếu đúng sự thật thì “đóng dấu chứng nhận rồi gửi ngay về Văn phòng Chủ tịch Chính phủ ở Hà Nội”

Ngày 16/2/1947, trên cương vị Chủ tịch nước, Người ký Sắc lệnh số 20/SL ban hành chế độ hưu bổng thương tật và tiền tử tuất. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên đặt nền tảng cho chính sách thương binh, liệt sỹ của nước ta.

Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp đã thu hút nhiều thanh niên tham gia chiến đấu. Một số chiến sĩ đã hy sinh anh dũng, một số nữa là thương binh, bệnh binh, đời sống gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình ấy, tháng 6/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Chính phủ chọn một ngày nào đó trong năm làm “Ngày thương binh” để đồng bào ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến thương binh. Hưởng ứng và đáp lại tấm lòng của Bác, một hội nghị trù bị của Trung ương tổ chức tại xã Phú Ninh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, đã nhất trí lấy ngày 27/7 là “Ngày thương binh toàn quốc”. Đến tháng 7 năm 1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi ngày này thành ngày “Thương binh - liệt sỹ” và tên gọi đó được trân trọng lưu giữ cho đến hiện nay.


Khi phong trào “đền ơn đáp nghĩa” đối với thương binh, gia đình liệt sỹ được phát động và triển khai, Bác luôn tiên phong gương mẫu thực hiện. Người viết trong thư gửi Ban Thường trực của Ban Tổ chức ngày “Thương binh toàn quốc” tháng 7/1947: “Ngày 27 tháng 7 là một ngày kỷ niệm. Mỗi năm đến ngày ấy, thì những người ái quốc Việt Nam càng tưởng nhớ đến anh em thương binh, tưởng nhớ đến các liệt sỹ, tưởng nhớ đến những người vô danh anh hùng, hoặc đã hy sinh tính mệnh, hoặc đã góp phần xương máu trong cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại của dân tộc ta...”

Cuối thư, Người vận động đồng bào nhường cơm sẻ áo, giúp đỡ thương binh. Bản thân Người đã xung phong góp chiếc áo lụa, một tháng lương và tiền ăn một bữa của Người và của tất cả các nhân viên của Phủ Chủ tịch, tổng cộng là 1127 đồng để tặng thương binh.

Đến ngày 03/10/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Bộ Thương binh - Cựu binh (tiền thân của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) để chuyên trách chăm lo đến thương binh, liệt sỹ. Sắc lệnh trên là cơ sở để thực hiện đồng bộ trong cả nước về chế độ, chính sách đền ơn đáp nghĩa của Đảng, Nhà nước, nhân dân đối với những người có công với cách mạng.

Trải qua hàng chục năm chiến đấu cho lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, hàng triệu đồng bào ta đã hy sinh, hàng chục vạn người đã cống hiến một phần thân thể của mình. Thấu hiểu những hy sinh to lớn đó, Người căn dặn: “Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh hùng ấy, mọi người phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các anh hùng liệt sỹ để vượt qua tất cả khó khăn, gian khổ hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sỹ đã để lại cho chúng ta”.

Người cũng chỉ ra rằng công việc chăm sóc thương, bệnh binh và gia đình liệt sỹ vừa là nghĩa cử cao đẹp, vừa là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Công việc đó cần phải thiết thực, có tổ chức và thể hiện trong mọi hoàn cảnh, mọi đơn vị, mọi làng xã. Và quan trọng hơn là công việc đền ơn đáp nghĩa không phải chỉ thực hiện trong ngày một ngày hai, chỉ trong những ngày lễ tết, mà phải duy trì liên tục và duy trì mãi mãi: “Tôi mong và chắc rằng: đồng bào trước đã giúp đỡ, sau này sẽ sẵn sàng giúp đỡ mãi”.

Sau này, mặc dù bận rộn với nhiều công việc quan trọng của đất nước nhưng Bác vẫn thường xuyên nhắc nhở các địa phương phải thực hiện nghiêm chỉnh những chủ trương, chính sách của Nhà nước dành cho thương binh, liệt sỹ: “Tôi nhắc các cơ quan, đoàn thể phải chấp hành một cách chu đáo các chính sách của Đảng và Chính phủ đối với anh em thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sỹ... Nhiều nơi đồng bào đã hiểu đúng và làm như vậy. Nhưng cũng còn một số ít địa phương chưa hiểu đúng, làm đúng. Tôi mong rằng đồng bào, đoàn thể và cán bộ ở những địa phương đó sửa chữa những thiếu sót ấy và quan tâm giúp đỡ những người đã từng hy sinh cho nước nhà”

Người cũng thường xuyên đến động viên, thăm hỏi và có nhiều ý kiến huấn thị, căn dặn các thương, bệnh binh và thân nhân liệt sỹ. Trong đó, Người nhấn mạnh đến việc phải giữ gìn phẩm chất, đạo đức của người chiến sĩ cách mạng và phải không ngừng phấn đấu vươn lên để chiến thắng bệnh tật, chiến thắng hoàn cảnh; từ đó tham gia học tập và lao động sản xuất, góp phần vào công cuộc kháng chiến và xây đựng đất nước. Người cũng đã rất nhiều lần khen thưởng các thương, bệnh binh đã cố gắng trong việc rèn luyện sức khoẻ và học tập, tham gia lao động sản xuất, không chỉ đã từng là chiến sĩ kiểu mẫu ngoài mặt trận mà còn trở thành những công dân kiểu mẫu ở hậu phương... Trước những biểu hiện chưa đúng đắn ở một số thương, bệnh binh, Người cũng đã động viên, nhắc nhở kịp thời để họ nhận rõ sai lầm mà sửa chữa, phấn đấu tiến bộ.

Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn: “Đối với các liệt sỹ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sỹ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.

Có thể nói, ở mọi lúc, mọi nơi, mọi thời điểm, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho thương binh, liệt sỹ những tình cảm, sự quan tâm đặc biệt nhất. Tình cảm đó không chỉ là những lời kêu gọi mộc mạc, chân thành, giản dị mà còn thể hiện qua hành động cụ thể đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ.

Thấm nhuần tư tưởng của Người, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã nhấn mạnh yêu cầu về nhận thức đối với các vấn đề xã hội: “Bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội. Trong đó, tăng cường quản lý, phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người”. Đây chính là sự nhận thức nhất quán của Đảng, nhà nước về vai trò, vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng đối với các chính sách xã hội nói chung và đối với thương binh, liệt sỹ, gia đình có có công với cách mạng nói riêng theo tư tưởng của Bác.

Với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân Việt Nam cần tích cực học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cùng với Đảng, Nhà nước, các ban ngành, đoàn thể các cấp thực hiện tốt các chính sách xã hội, chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của thương binh, bệnh binh và gia đình có công. Đó là tình cảm, trách nhiệm, là bổn phận của mỗi chúng ta và của toàn xã hội./.